Cảng biển Việt Nam và câu chuyện thừa, thiếu
Cả nước hiện có hơn 260 cảng biển, trong đó có chín cảng lớn, song vẫn chưa thể đón tàu tải trọng lớn hơn 50.000 tấn, khiến nền kinh tế tổn thất gần 1,5 tỉ USD mỗi năm. Hầu hết hàng xuất khẩu của Việt Nam đều phải trung chuyển tới các tàu lớn neo đậu ở Đông Nam Á. Vận tải và bốc xếp trung chuyển làm cho chi phí vận tải tăng thêm tới 28%, mất đi những lợi thế so sánh. Thừa hay thiếu? Có quá nhiều bến cảng nhưng quá ít cảng đáp ứng yêu cầu là nhận định chung của nhiều chuyên gia về thực trạng cảng biển Việt Nam hiện nay. Ngoại trừ một số cảng lớn (Sài Gòn, Đà Nẵng, Hải Phòng), phần lớn các cảng nhỏ, năng lực và trình độ chuyên môn hạn chế, thị trường giới hạn trong phạm vi địa phương. Vấn đề lớn nhất đối với các cảng biển – đầu mối giao thông phục vụ xuất, nhập khẩu của Việt Nam không phải là số lượng, mà chính là ở chất lượng và khả năng kết nối của các cảng đầu mối lớn tại hai vùng kinh tế trọng điểm. Về công nghệ bốc xếp, theo nhận xét của ông Nguyễn Văn Vịnh, trưởng ban phát triển hạ tầng, viện Chiến lược phát triển (bộ Kế hoạch và đầu tư), trừ một số bến cảng của Chùa Vẽ (Hải Phòng), cảng Tiên Sa (Đà Nẵng), Tân Cảng, VIC, Bến Nghé, Tân Thuận (TP.HCM) đã trang bị một số phương tiện thiết bị xếp dỡ hiện đại, chuyên dụng container, còn lại hầu hết các cảng biển Việt Nam chủ yếu sử dụng thiết bị bốc xếp thông thường, thô sơ hoặc cần cẩu tàu là chính. Trừ một số bến mới được xây dựng đưa vào khai thác gần đây được trang bị các thiết bị xếp dỡ tương đối hiện đại, còn lại hầu hết các bến cảng vẫn sử dụng các thiết bị bốc xếp thông thường, quản lý điều hành quá trình bốc xếp bảo quản giao nhận hàng hoá với kỹ thuật công nghệ lạc hậu nên năng suất xếp dỡ của các cảng rất thấp. Ngoài ra, hệ thống cảng biển Việt Nam chủ yếu là cảng tổng hợp và cảng chuyên dùng, bến container chiếm rất ít, trong khi đó xu thế vận chuyển hàng hoá bằng container ngày một tăng cao. Dự kiến đến năm 2020 sẽ có khoảng 340 triệu tấn hàng hoá thông qua các cảng biển Việt Nam. Việt Nam phải xây thêm 15 – 20km bến cảng mới cũng như cần khoảng 4 tỉ USD để đầu tư thì mới đáp ứng nhu cầu tăng trưởng. Nhưng khó khăn ở chỗ là sự phân bố giữa các vùng và khu vực lại không đồng đều. Các cảng phía Bắc chiếm 25 – 30% khối lượng vận tải nên công suất vẫn còn thừa. Các cảng miền Trung chiếm 13% khối lượng, đang ở tình trạng chỉ sử dụng một phần công suất. Cảng Vân Phong được cho là lớn nhất Việt Nam, nhưng nhiều hãng tàu nước ngoài đánh giá, đó là một câu chuyện của tương lai, còn hiện tại tàu của họ không thể tiếp cận. Tại phía Nam, các cảng chiếm 57% khối lượng vận chuyển, riêng về container đến 90% khối lượng, nhưng hiện đang quá tải. Thực tế này cho thấy, câu chuyện thiếu, thừa vẫn sẽ tiếp diễn khi mà vấn đề quy hoạch cảng biển không theo sát thực tế. Đến năm 2015 mới biết Bình quân năng suất xếp dỡ hàng hoá của các cảng biển Việt Nam chỉ bằng 50 – 60% năng suất của các cảng tiên tiến trong khu vực |
Dự tính của cục Hàng hải Việt Nam cho thấy, để có thể đáp ứng lượng hàng hoá thông qua các cảng biển dự kiến lên tới 1.580 triệu teus vào năm 2030, Việt Nam cần ít nhất 56 tỉ USD để xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng cảng biển và nâng cấp các luồng vào cảng. Ông Vương Đình Lam, cục trưởng cục Hàng hải Việt Nam, để tìm đủ kinh phí xây dựng các cảng mới và mở rộng, nâng công suất các cảng hiện hữu, sẽ huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư. Hiện, Nhật Bản đang rất quan tâm đến lĩnh vực này. Cụ thể, vào tháng 11 tới, Chính phủ Việt Nam và Nhật Bản sẽ ký hiệp định vay vốn để phát triển cảng biển Hải Phòng thành cảng cửa ngõ quốc tế. Dự kiến, tổng vốn đầu tư cho việc phát triển cảng biển này là 800 triệu USD, trong đó phần vốn nhà nước khoảng 600 triệu USD. Sau khi nâng cấp, cảng Hải Phòng có thể đón tàu tải trọng 100.000 tấn vào năm 2014. Ông Lam cho biết, hiện Chính phủ đã giao cho tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đầu tư các đường liên cảng, do đó khả năng liên thông hàng hoá bằng đường bộ trong một, hai năm tới sẽ tốt hơn. Ngoài ra còn có một đường cao tốc nối liền các khu công nghiệp ở Bình Dương, Đồng Nai, TP.HCM xuống Vũng Tàu hiện đang được bộ Giao thông vận tải chỉ đạo trực tiếp. Hệ thống đường sắt cũng sẽ được triển khai xây dựng nối liền TP.HCM, Bà Rịa – Vũng Tàu – Bình Thuận và Đà Nẵng sau khi đường bộ hoàn thiện. “Bộ Giao thông vận tải đã có quy hoạch cảng biển, đường bộ và đường sắt kết nối chặt chẽ với nhau. Hy vọng vào năm 2015, quy hoạch này sẽ hoàn thiện và có thể đón nhận tàu từ 100.000 tấn”, ông Lam nói. TheoSGTT |